Ung thư trực tràng thấp là gì? Các công bố khoa học về Ung thư trực tràng thấp
Ung thư trực tràng thấp hay còn gọi là ung thư trực tràng giai đoạn I, là một loại ung thư xuất phát từ niêm mạc trực tràng gần mặt trong (niêm mạc hạch cầu). U...
Ung thư trực tràng thấp hay còn gọi là ung thư trực tràng giai đoạn I, là một loại ung thư xuất phát từ niêm mạc trực tràng gần mặt trong (niêm mạc hạch cầu). Ung thư trực tràng thấp thường diễn biến chậm hơn, ít gây ra triệu chứng ban đầu và có thể được phát hiện tại giai đoạn sớm thông qua quá trình sàng lọc ung thư. Một số triệu chứng chung của ung thư trực tràng thấp có thể bao gồm thay đổi về hình dạng và màu sắc phân, đau bụng, tức ngực và sự suy giảm cân nhanh chóng. Để chẩn đoán ung thư trực tràng thấp, người bệnh cần phải thực hiện các xét nghiệm như xét nghiệm máu, nội soi trực tràng và siêu âm. Để điều trị ung thư trực tràng thấp, các phương pháp có thể bao gồm phẫu thuật, hóa trị và xạ trị.
Ung thư trực tràng thấp là một loại ung thư xuất phát từ niêm mạc trực tràng gần mặt trong, thường ở phần dưới của trực tràng. Trực tràng là phần cuối của hệ tiêu hóa, nơi chất thải từ quá trình tiêu hóa được lưu trữ và tiếp tục chuyển động để chuẩn bị trở thành phân.
Ung thư trực tràng thấp diễn biến chậm hơn so với các loại ung thư trực tràng khác. Nó thường phát triển từ những chỗ biến đổi tế bào tiền ung thư gọi là polyp trực tràng. Khi polyp trực tràng bị biến chuyển sang túi ác tính (khối u ác tính), nó trở thành ung thư trực tràng thấp.
Triệu chứng của ung thư trực tràng thấp thường không rõ ràng ở giai đoạn đầu. Khi bước vào giai đoạn tiến triển, những triệu chứng chung có thể bao gồm:
1. Thay đổi về hình dạng, màu sắc hoặc kết cấu phân.
2. Đau bụng không rõ nguyên nhân hoặc kẹt nghẽn.
3. Cảm giác đầy bụng hoặc khó thở do áp lực từ khối u trên các cơ quan gần đó.
4. Mất khối lượng cơ thể không rõ nguyên nhân.
5. Mệt mỏi và khó chịu tổng thể.
Để chẩn đoán ung thư trực tràng thấp, các bước xét nghiệm có thể bao gồm:
1. Xét nghiệm máu: Xét nghiệm máu có thể cho thấy mức độ tăng của một số chỉ số ung thư như CEA và CA19-9.
2. Nội soi trực tràng: Quá trình này sử dụng một ống mềm có camera ở đầu để kiểm tra trực tràng và lấy mẫu nếu cần thiết.
3. Siêu âm: Dùng sóng siêu âm để tạo hình ảnh vùng trực tràng và xác định vị trí và kích thước của khối u.
Việc điều trị ung thư trực tràng thấp thường bao gồm một hoặc kết hợp các phương pháp sau:
1. Phẫu thuật: Phẫu thuật điều trị là phương pháp chính để loại bỏ khối u và các phần trực tràng bị ảnh hưởng.
2. Hóa trị: Sử dụng thuốc chống ung thư để ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.
3. Xạ trị: Sử dụng tia X hoặc tia gamma để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chặn sự tái phát.
Việc khám sàng lọc ung thư trực tràng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm ung thư trực tràng thấp. Điều này thường bao gồm xét nghiệm phân ẩn tạp chất (FIT) hoặc colonscopy định kỳ để tìm kiếm dấu hiệu của polyp hoặc ung thư trực tràng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư trực tràng thấp":
Tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư đại trực tràng (CRC) đang gia tăng ở nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMIC), có thể do sự kết hợp giữa lối sống thay đổi và cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe được cải thiện để tạo điều kiện cho việc chẩn đoán. Đáng tiếc, một tỷ lệ lớn các trường hợp CRC ở những quốc gia này vẫn chưa được chẩn đoán hoặc được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, dẫn đến kết quả xấu. Xu hướng giảm tử vong ở các quốc gia có thu nhập cao (HIC) có khả năng là do các phương pháp sàng lọc và điều trị dựa trên bằng chứng mà không được áp dụng rộng rãi ở LMIC. Nghiên cứu hình thành để xác định các cơ hội mới nổi nhằm triển khai các chương trình sàng lọc và điều trị phù hợp ở LMIC do đó ngày càng quan trọng. Chúng tôi đặt mục tiêu xác định các rào cản và yếu tố thuận lợi tiềm năng cho việc triển khai sàng lọc CRC dựa trên xét nghiệm miễn dịch phân (FIT) trong một hệ thống chăm sóc sức khỏe công cộng ở một quốc gia có thu nhập trung bình với tỷ lệ xảy ra và tử vong CRC đang tăng cao.
Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu định tính với các phỏng vấn cá nhân và nhóm tập trung có cấu trúc nửa với các bên liên quan khác nhau trong sàng lọc CRC, bao gồm 30 người bình thường có nguy cơ trung bình đối với CRC, 13 nhân viên chăm sóc sức khỏe từ một phòng khám công cộng địa phương và 7 nhân viên nội soi từ một bệnh viện giới thiệu điều trị ung thư. Tất cả các cuộc phỏng vấn đã được ghi chép lại nguyên văn để phân tích. Dữ liệu đã được phân tích bằng phương pháp so sánh liên tục, dưới các góc độ lý thuyết của mô hình sinh thái xã hội (SEM), mô hình PRECEDE-PROCEED và mô hình niềm tin sức khỏe.
Chúng tôi đã xác định các rào cản và yếu tố thuận lợi cho việc triển khai chương trình sàng lọc CRC dựa trên FIT ở một số cấp độ của SEM. Các rào cản chính ở mỗi cấp độ SEM như sau: (1) ở cấp độ bối cảnh xã hội: nghèo đói, khả năng hiểu biết về sức khỏe và các niềm tin phổ biến liên quan đến giới tính, ung thư, y học chính thống và tôn giáo; (2) ở cấp độ tổ chức dịch vụ y tế: sự thiếu kiến thức về CRC trong số nhân viên chăm sóc sức khỏe và nhận thức của cộng đồng về chất lượng chăm sóc sức khỏe kém; và (3) ở cấp độ cá nhân: thiếu nhận thức về CRC và do đó thiếu cảm nhận rủi ro, cùng với sự sợ hãi tham gia các hoạt động sàng lọc và phát hiện về một căn bệnh nghiêm trọng. Các yếu tố thuận lợi chính mà các tham gia viên cảm nhận được là thông tin sàng lọc CRC và việc cung cấp miễn phí các xét nghiệm sàng lọc.
Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy rằng các chương trình sàng lọc CRC nhiều cấp độ ở các quốc gia có thu nhập trung bình như Mexico nên kết hợp các chiến lược bổ sung để giải quyết các rào cản và yếu tố thuận lợi, chẳng hạn như (1) cung cấp miễn phí các xét nghiệm sàng lọc, (2) giáo dục cho nhân viên chăm sóc sức khỏe ban đầu, và (3) thúc đẩy các thông điệp sàng lọc CRC không dựa trên nỗi sợ hãi cho nhóm đối tượng mục tiêu, được điều chỉnh để giải quyết các niềm tin phổ biến.
Bối cảnh Các phương pháp tiếp cận vùng bụng kết hợp với vùng âm đạo từ phía trước đã được sử dụng như một phương pháp phẫu thuật thay thế cho việc điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng thấp. Mục tiêu chính của bài báo này là mô tả các giai đoạn phẫu thuật của các phương pháp tiếp cận kết hợp bụng và âm đạo được thực hiện cho ung thư trực tràng thấp, đặc biệt là ở giai đoạn tiếp cận vùng âm đạo từ phía trước.
Phương pháp Chúng tôi đã thực hiện các ca phẫu thuật bảo tồn cơ vòng bằng cách sử dụng đường tiếp cận vùng âm đạo từ phía trước kết hợp với đường tiếp cận bụng trên bốn bệnh nhân nữ mắc ung thư trực tràng thấp.
Kết quả Kỹ thuật giải phẫu ngoài cơ vòng bảo tồn đã được thực hiện trên bốn bệnh nhân nữ được phẫu thuật bằng phương pháp tiếp cận kết hợp bụng và vùng âm đạo từ phía trước. Tất cả bệnh nhân đều có khả năng kiểm soát đại tiện. Sau phẫu thuật, một bệnh nhân đã được chuyển sang cắt cụt trực tràng bụng do phát hiện dương tính với rìa cắt tại điểm cắt tận cùng.
Kết luận Đường tiếp cận vùng âm đạo từ phía trước cung cấp khả năng giải phẫu trực tràng ngoài cơ vòng trong hố ischioanal. Do đó, các phương pháp tiếp cận kết hợp bụng và vùng âm đạo từ phía trước đã dựa trên các đặc điểm giải phẫu và phẫu thuật khác biệt khi so sánh với kỹ thuật giải phẫu giữa các cơ vòng, là thủ thuật phẫu thuật thường được sử dụng nhất trong phẫu thuật ung thư trực tràng thấp.
- 1
- 2
- 3